Trong cuộc họp hôm 2/3/2020, lời kêu gọi hát bài Chúc mừng Sinh nhật trong lúc rửa tay bảo vệ bản thân và cộng đồng giữa đại dịch Covid-19 của Thủ tướng Anh Boris Johnson khiến mọi người ngạc nhiên. Quy định mới về thói quen rửa tay hàng ngày, một trong số ít biện pháp mà tất cả mọi người đều có thể thực hiện để chống lại Covid-19, đang được chia sẻ ngày một rộng rãi trên các diễn đàn trực tuyến.
Brandon Flowers, thủ lĩnh ban nhạc rock Mỹ, đăng video chính mình nhún nhảy theo giai điệu bản hit Mr Brightside trong lúc rửa tay bằng xà phòng, trên kênh có hơn 4 triệu người theo dõi. Juhi Dench và Gyles Brandreth đăng tải đoạn video cả hai đọc bài thơ “The Owl and Pussycat” (Cú và Mèo) với đôi bàn tay đầy bọt xà phòng.
Sự xuất hiện dày đặc các hướng dẫn rửa tay đúng cách còn gây ngạc nhiên hơn với Nancy Tomes, giáo sư lịch sử nổi tiếng tại Đại học Stony Brook, New York.
“Là một nhà sử học chuyên nghiên cứu về những đại dịch tương tự và giờ chính mình trải qua đại dịch Covid-19, tôi có cảm giác mình là một hành khách trên tàu Titanic, một lần nữa được xem lại các thước phim”, Nancy so sánh. “Tôi như đang trở về thế kỷ 20, khi các bệnh truyền nhiễm như lao, đậu mùa là nguyên nhân tử vong số một, và sự xuất hiện của khoa học mầm bệnh đã dẫn đến nỗi ám ảnh hàng loạt đầu tiên về vệ sinh tay sạch sẽ”.
2. Lịch sử 130 năm rửa tay
Trong nền văn hóa Hồi giáo, Do Thái và một số nền văn hóa khác, các nghi thức rửa tay tôn giáo đã tồn tại từ hàng ngàn năm. Giới y học chỉ phát hiện bệnh tật lây lan qua bàn tay cách đây 130 năm. Song, hiểu biết rằng rửa tay có thể cứu mạng con người đã được phát hiện trước đó 50 năm, năm 1848.
“Nếu ai đó được trao danh hiệu cha đẻ của hành động rửa tay thì người đó chính là Ignaz Semmelweis”, Miryam Wahrman, giáo sư sinh học, Đại học William Paterson, bang New Jersey, tác giả cuốn sách The Hand Book: Surviving in a Germ-Filled World (Cuốn sách về Bàn tay: Sống sót trong thế giới đầy vi khuẩn) nói.

Ignaz Semmelweis, người Hungary, bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa Vienna, là một trong những nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu về thuốc. Khi chứng kiến số trường hợp sản phụ tử vong do sốt sản tại một khoa sản do các bác sĩ đứng đầu cao hơn đáng kể so với phòng khám của các nữ hộ sinh, Ignaz quyết đi tìm lý do.
Lúc này, vi trùng vẫn chưa được khoa học phát hiện. Những năm 1840, người ta vẫn tin bệnh tật được lây truyền qua khí độc – những mùi hôi trong không khí – phát ra từ các xác chết thối rữa, nước thải hoặc thảm thực vật. Thời kỳ Victoria (1837-1901), người dân đóng chặt cửa hàng ngày để “khí độc” không bay vào nhà.
Các học viên bác sĩ tại Bệnh viện Đa khoa Vienna thường thực hành tại các phòng xác, khám nghiệm tử thi, rồi ngay sau đó di chuyển tới khoa sản để đỡ đẻ, mà không hề rửa tay.
Một lần, một trong số những học viên bác sĩ vô tình bị dao mổ cắt vào tay khi đang mổ bắt con cho một sản phụ, qua đời sau đó, với các triệu chứng tương tự các sản phụ qua đời vì sốt sản. Ignaz đặt ra giả thuyết các “hạt xác chết” là nguyên nhân dẫn tới cái chết của cả hai. Các hạt này dính trên tay bác sĩ, sau đó xâm nhập vào cơ thể sản phụ trong quá trình sinh con.
Để kiểm tra lý thuyết của mình, ông đã ra lệnh cho các bác sĩ rửa tay và dụng cụ phẫu thuật bằng dung dịch clo, với hy vọng clo tẩy được mùi gây chết người từ các “hạt xác chết”.
Trước thí nghiệm của Ignaz, tỷ lệ tử vong của sản phụ sau sinh là 18%. Sau khi các bác sĩ được yêu cầu rửa tay sau mỗi lần khám nghiệm tử thi, tỷ lệ tử vong giảm xuống chỉ còn 1%. Dù đạt kết quả khả quan, ý tưởng của ông bị nhiều người phản đối, nhận kết cục bi thảm. Ông bị đuổi việc, quãng thời gian sau đó được cho là suy sụp tinh thần. Ông qua đời trong viện tâm thần.
“Một phần vấn đề nằm ở chỗ, mọi người không có quan niệm bản thân họ là ‘những đĩa petri di động’ (đĩa đựng vi khuẩn trong thí nghiệm sinh học). Các bác sĩ cảm thấy bị xúc phạm với ý tưởng họ có thể là nguyên nhân gây nhiễm trùng”, Nancy nói. “Phần lớn các bác sĩ tại bệnh viện Vienna trong thời gian đó thuộc tẩng lớp trung lưu, thượng lưu, họ nghĩ rằng bản thân là những người rất sạch sẽ so với những người lao động nghèo. Ignaz đã xúc phạm các bác sĩ khi nói có thể đôi bàn tay họ bẩn”.
Trong 40 năm tiếp theo, hiểu biết về vi trùng được mở rộng, thái độ người dân về việc an toàn vệ sinh cũng dần thay đổi. Năm 1857, trong khi sức khỏe tâm thần của Ignaz ngày càng xấu đi, Louis Pasteur với phát hiện về phương pháp thanh trùng, đã giúp nâng cao nhận thức về mầm bệnh, và cách tiêu diệt mầm bệnh bằng nhiệt độ cao. Năm 1876, nhà khoa học người Đức Robert Koch phát hiện ra trực khuẩn bệnh than, khơi mào lĩnh vực nghiên cứu về vi khuẩn học, nhờ đó trực khuẩn gây các bệnh như tả, lao, bạch hầu, thương hàn được xác định.
Các bác sĩ phẫu thuật bắt đầu rửa tay một cách nghiêm túc. Nancy nói “Khi bạn rạch da của ai đó – lớp da bảo vệ của mỗi người – bạn phải có biện pháp phòng ngừa thật cẩn thận”. Bác sĩ phẫu thuật người Anh Joseph Lister đã đi tiên phong trong phẫu thuật sát trùng, trong đó có rửa tay. Từ đó, vào những năm 1890, đầu 1900, rửa tay không còn là thói quen riêng của các bác sĩ, mà mọi người dân đều được nhắc nhở thực hiện.

Bác sĩ Florence Nightingale là người giúp phổ biến hóa việc rửa tay trong sinh hoạt hàng ngày. Dù vẫn hoạt động theo thuyết khí độc (Miasma Theory), một cách trực giác, bà vẫn cải thiện vệ sinh tại các bệnh viện quân đội trong chiến tranh Crimea (1853 – 1856). Bác sĩ Florence đã tạo được sức ảnh hưởng, biến việc giữ gìn nhà ở sạch sẽ thành mục tiêu mà một người vợ, người mẹ tốt cần tạo thói quen trong mỗi gia đình.
Đầu thế kỷ 20, những chiến dịch y tế cộng đồng phổ biến đầu tiên được triển khai để đối phó với bệnh lao. Các bác sĩ đã phát hiện ra bệnh lao không phải căn bệnh di truyền, mà là bệnh truyền nhiễm. Do đó, phong trào chống lao đã nhắm vào cả người lớn và lứa tuổi học sinh. Trẻ em đến trường được dạy các quy tắc về việc giữ gìn cơ thể, môi trường sống sạch sẽ, rửa tay hàng ngày.
3. Việc rửa tay bị coi nhẹ dần từ thế kỷ 20
Từ thế kỷ 20, mọi người đã hiểu rằng miệng, da, tóc chứa vi trùng, nhiều người bắt đầu sợ hãi khi bắt tay, hay hôn nhau. Nỗi sợ về vi trùng còn khiến đàn ông cạo râu, thực phẩm được gói vào túi riêng trong mua bán. Song, tâm lý quan trọng hóa an toàn vệ sinh không kéo dài lâu.
Sự kết hợp giữa tuyên truyền y tế cộng đồng và phát triển của văc-xin, thuốc kháng sinh đầu thế kỷ 20 khiến tỷ lệ tử vong vì các bệnh do vi khuẩn gây ra giảm đáng kể. “Việc quan trọng hóa sự sạch sẽ cũng theo đó dần giảm đi”, Nancy nói. “Tôi cho rằng sau thế chiến thứ hai, chăm sóc sức khỏe và cuộc sống hàng ngày trở nên lỏng lẻo hơn”.
Các bệnh lây qua đường tình dục bắt đầu tăng trở lại vào những năm 1970. “Mọi người bắt đầu nhận ra họ sẽ lại mắc các bệnh do vi trùng gây ra nếu không cẩn thận”, bà nói. “Sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề vệ sinh cá nhân lại nổi lên một lần nữa khi HIV, virus hoàn toàn mới, gây chết người gây ra, xuất hiện vào những năm 1980. HIV lây truyền qua đường máu, tinh dịch, dịch âm đạo và sữa mẹ, vì vậy vệ sinh tay không phải là một yếu tố quyết định trong phòng ngừa. Siêu vi khuẩn ở các bệnh viện trở thành mối lo, các loại virus xuất hiện khá thường xuyên, các bệnh do vi khuẩn cũng ngày càng dễ tái phát do tình trạng kháng kháng sinh.
Trước khi dịch Covid-19 xuất hiện, việc rửa tay trên thực tế ở một tỷ lệ thấp đáng lo ngại. Trong cuốn sách của mình, Miryam trích dẫn nghiên cứu được thực hiện với các sinh viên đại học năm 2009, công bố trên tạp chí American Journal of Infection Control. “Tỷ lệ của nữ giới và nam giới sau khi đi tiểu lần lượt là 69% và 43%, sau khi đại tiện: 84% và 78%, trước khi ăn – thời điểm quan trọng cần rửa tay: 7% và 10%”.

Một nghiên cứu thực hiện tại một bệnh viện giảng dạy ở Đại học bang East Tennessee năm 2007 chỉ ra chỉ 54% nhân viên y tế tuân thủ rửa tay trong quá trình chăm sóc bệnh nhân tại các khoa chăm sóc đặc biệt (ICU), tỷ lệ này tại khoa nhi là 90%. Sau khi được can thiệp và huấn luyện, tỷ lệ rửa tay khi chăm sóc cho người lớn được nâng lên 81%.
“Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng việc tuyên truyền rộng rãi việc rửa tay giữa đại dịch Covid-19 cũng sẽ chứng kiến sự gia tăng tương tự, hoặc thậm chí cao hơn trong cộng đồng”, Miryam nói.
Khi một đại dịch mới bùng phát, rửa tay có lẽ là điều tất cả chúng ta có thể làm. “Bạn chưa có thuốc, bạn cũng chưa có vaccine. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương pháp phi dược phẩm dễ dàng thực hiện”, Petra Klepac, phó giáo sư về mô hình bệnh truyền nhiễm, Đại học Vệ sinh và Bệnh Nhiệt đới London, nói.
3. Tầm quan trọng của việc rửa tay xuyên suốt dòng lịch sử
Rửa tay là một trong những cách tốt nhất để ngăn ngừa nhiễm trùng lây lan. Vi trùng có ở khắp mọi nơi, từ mặt bàn bếp đến cây xăng. Hệ miễn dịch của bạn có thể chống lại nhiều loại vi trùng hoặc ngăn chúng gây hại nghiêm trọng. Nhưng đôi khi, vi trùng vẫn có thể gây bệnh cho bạn. Đó chính là lúc việc rửa tay hiệu quả phát huy tác dụng.
Trong suốt 130 năm lịch sử rửa tay, đã rất nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, bạn có thể ngăn ngừa 1/3 số ca bệnh tiêu chảy và 1/5 số ca nhiễm trùng đường hô hấp bằng cách giữ tay sạch sẽ. Việc rửa tay đã thấy rõ tầm quan trọng trong việc giữ sức khỏe và sự sống cho mọi người, ngăn chặn lây lan dịch bệnh, nhiễm trùng nguy hiểm.
Bởi vì tay là nơi thuận tiện để vi trùng lây lan. Thông qua bàn tay, vi trùng có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác, từ khắp nơi đến các nơi trên cơ thể chúng ta. Bạn chỉ cần chạm vào bề mặt bị nhiễm bẩn rồi chạm vào mắt, mũi hoặc miệng. Từ đó, vi trùng sẽ di chuyển đến niêm mạc dẫn vào cơ thể, nhanh chóng đến nơi chúng muốn đến (tế bào bên trong cơ thể bạn), để trú ngụ và sinh sôi.
Nhưng bạn có thể ngăn chặn phần lớn nguy cơ này bằng cách rửa tay. Rửa tay có thể ngăn chặn vi trùng ngay từ đầu. Thay vì di chuyển đến các điểm xâm nhập vào cơ thể, vi trùng cuối cùng sẽ trôi xuống cống. Rửa tay đủ lâu với kỹ thuật đúng cách có thể loại bỏ hầu hết vi trùng trước khi chúng đến đích.
4. Rửa tay quá nhiều có nguy hiểm không?
Việc lạm dụng quá mức một thứ gì đó là hoàn toàn có thể. Rửa tay vào những thời điểm quan trọng là rất quan trọng, nhưng việc tạo bọt quá thường xuyên có thể:
- Loại bỏ các lớp dầu bảo vệ trên da và vi khuẩn có lợi cần thiết để chống lại vi khuẩn có hại trên da tay bạn.
- Khiến tay bị nứt nẻ, khô hoặc bong tróc, tạo điều kiện cho vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào cơ thể bạn hơn.
- Gây bùng phát bệnh chàm ở những người có nền da yếu, bị bệnh chàm, dễ kích ứng.
- Dẫn đến viêm da tiếp xúc kích ứng.
Nếu bạn cần rửa tay thường xuyên vì công việc hoặc lý do khác, việc sử dụng kem dưỡng ẩm có chứa chất làm mềm da có thể hữu ích. Bạn cũng có thể trao đổi với bác sĩ chăm sóc sức khỏe về các cách giữ cho da luôn mịn màng và ngăn ngừa kích ứng hoặc các vấn đề khác.
5. Hướng dẫn chọn xà phòng làm sạch tốt, mềm da tay
Hướng dẫn chọn xà phòng rửa tay cũng quan trọng như việc rửa tay vậy. Nếu có thể bạn chưa biết thì da tay có độ pH trung bình là 5.5, môi trường có tính axit nhẹ. Chính môi trường này cùng lớp dầu bảo vệ trên da tạo thành một hàng rào bảo vệ da trước các tác nhân, vi khuẩn có hại trên da. Do vậy, các bạn nên chọn các sản phẩm xà phòng có tính diệt khuẩn, an toàn, có pH5.5 bảo vệ làn da, được chứng nhận da liễu và kiểm nghiệm lâm sàn.
Các xà phòng thông thường có độ pH dao động 9-10 là môi trường kiềm. Khi sử dụng rửa tay, vệ sinh cơ thể thường khiên da bị khô, thô ráp quá mức. Đồng thời, sẽ khiến mất cân bằng pH trên da, làm yếu đi hàng rào bảo vệ da vốn có.
Các bạn nên chọn các thanh xà phòng như Thanh kháng khuẩn Sebamed pH5.5 có tác dụng diệt khuẩn trong vòng 20 giây rửa tay với độ pH lý tưởng giúp tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên của da. Công thức làm sạch dịu nhẹ với Panthenol giúp tái tạo da, Vitamin E làm mềm da. Bên cạnh điểm nổi bật là pH 5.5, thanh xà phòng kháng khuẩn còn 100% không xà phòng và kiềm, đặc biệt phù hợp với làn da nhạy cảm, da chàm viêm da cơ địa